Tịnh Ngôn Cốc đang tuyển Nhóm dịch, đăng ký ngay tại đây!

Chương 2

2. Có thể nói giữa tôi và Tề Thiệu Minh là mối quan hệ không khoan nhượng. Anh ta nói rất nhiều, thỉnh thoảng còn không có điểm dừng. Hơn nữa nếu tâm lý nổi loạn lên thì lại nói càng nhiều. Tôi không muốn làm gì hơn cho anh ấy nên mỗi ngày chỉ thay thuốc và đưa cơm. Tề Thiệu Minh nhận ra điều này nên càng chọc tức tôi. Đợi đến giờ tôi thay thuốc thì luôn bày bộ dạng “em làm gì được anh” để chọc tôi, thật là khó chịu. Cho đến một ngày tôi nhận được thư của Tô Hàng, tôi mới trút bỏ được tâm trạng đang treo trên ngọn cây, vô cùng vui mừng, trong lúc thay thuốc tôi còn ngân nga một vài câu hát. Sau một hai tháng chúng tôi quen biết, cơ thể anh ấy đã hồi phục nhiều cũng đã có thể rời khỏi giường bệnh. “Sao đấy, có chuyện gì tốt sao? Chẳng nhẽ bác sĩ Lý đẹp trai nhất ở đây đã cầu hôn em à?” Anh khoanh tay đứng ở đầu giường hỏi tôi. Tôi trừng mắt nhìn anh ấy: “Hôm nay em trai em gửi thư, em vui lắm, không thèm nói chuyện với anh nữa.” Anh cao hứng hỏi lại: “Em trai? Em còn có em trai hả? Không phải là con một sao? Nếu không sao lại đồng ý cho cậu ta ra chiến trường?” Tôi đặt viên thuốc xuống, giọng trầm xuống: “Trong nhà chỉ có hai đứa em.” Anh ta giật mình rời lưng khỏi bức tường: “Anh...” Đây cũng là lần đầu tiên tôi thấy anh ấy giật mình như thế, không muốn không gian trở nên lúng túng hơn nên tôi nói luôn: “Gia đình em sống ở Nam Kinh, cha em là một học giả, một học giả cổ hủ nhất mà em từng biết, có những lúc em cũng khinh thường cha em, suốt ngày đọc mấy cuốn sách vô bổ, không giết được giặc ngoại xâm lại suốt ngày nói chuyện thời cuộc, rồi lại nói thế này, thế kia…” Tôi vừa đổi thuốc cho anh ấy lại vừa nói tiếp: “Trong cuộc thảm sát, muốn làm anh hùng mà ông ấy đã bảo vệ cháu trai của bà Vương nhưng thật không may ông lại không cứu được bản thân.” Có lẽ anh ấy muốn nói gì đó và đang cân nhắc nên an ủi tôi như thế nào, nhưng tôi đã nghe được rất nhiều trước đây rồi nên nói tiếp: “Cha em là giáo viên của trường tư thục, bảo thủ thậm chí còn cổ hủ nữa, nhưng ông ấy lại vô cùng yêu nước, gia đình quyên góp mọi thứ có thể quyên góp được. Em và em trai thậm chí ăn không đủ no nhưng hai đứa cũng không dám nói gì, đôi lúc sau khi ông ấy uống rượu, ông sẽ kéo chị em ngồi cùng xuống và nói xin lỗi. “Nhưng ông ấy vẫn nhất quyết sẽ dạy trường tư thục, kể cả không có tiền để các con lo cơm nước. Sau này em mới hiểu, ông ấy nhất quyết phải dạy học là vì muốn đánh giặc thì phải đọc sách, nếu giặc ngoại xâm cướp nước thì nền văn minh hàng nghìn năm sẽ mai một… Cha em gọi đó là nền văn minh lịch sử.” “Cha em mất rồi, nhưng để lại sự cứng rắn này cho hai anh em, sau đó em đi học y tá còn em trai ra tiền tuyến.” “Anh thì sao, trong nhà có mấy anh chị em?” Tôi chuyển câu hỏi mà không cho anh ta có cơ hội an ủi. Anh ấy nhìn tôi rồi ngả lưng vào tường để trả lời: “Trước đây nhà anh buôn bán nhỏ, cũng được coi là khá giàu có.” Anh ấy vừa nói vừa hút thuốc. Tôi định ngăn anh ấy lại nhưng nhìn thấy đôi mắt anh trùng xuống tôi lại không ngăn nữa. Chính lúc ấy tôi đã nhận rằng, người đàn ông mà tôi nghĩ không chuyên nghiệp trong chiến tranh này dường như cũng có quá khứ buồn bã và đau đớn. Thật ra, trong mỗi gia đình thì đều có những chuyện khó nói ra. Không ai tránh khỏi. Không có ngoại lệ. “Mẹ anh mất sớm, trong nhà chỉ còn cha và dì, con trai của dì lớn hơn anh 3 tuổi.” Sau làn khói anh nheo mắt như đang hồi tưởng lại. “Khi lũ Hán gian đưa giặc ngoại xâm vào đất nước, anh đã bàn bạc với cha mình và xin ra tiền tuyến. Ban đầu cha nhất quyết không cho nhưng sau khi đọc bức thư của liệt sĩ nơi pháp trường ông ấy về nhà uống rượu cả đêm và đồng ý vào ngày hôm sau. Ông đi chợ đen mua thuốc nổ, giả vờ yêu cầu bọn ngoại xâm chuyển lương thực và vật dụng, đặt thuốc nổ trong nhà kho và cùng chết với bọn giặc.” “Dì vẫn còn rất trẻ đẹp, bọn giặc ngoại xâm rất thích dì ấy. Dì giả vờ ngoan ngoãn sống ở dinh thự nhưng lại ra đi vì tự sát. Trên tầng ba của dinh thự, dì hét to “lũ Nhật Bản chết không nên thây” rồi ngã xuống, cơn mưa to ngày ấy cũng không thể rửa trôi hết máu. Ngày hôm sau rất nhiều hoa cúc được đặt lên đó.” “Anh cả gửi anh tôi ra nước ngoài tránh nạn. Sau khi trở về, nghe người khác nói rằng anh cả của đã nhập ngũ... Sau đó, cũng từ những người này mà anh biết được rằng anh ấy đã hy sinh. Thi thể được chôn tại chỗ, hiện vẫn chưa rõ tung tích.” Khoảng lặng lan tỏa giữa chúng tôi. Mặc dù cả hai chúng tôi dường như đang thuật lại chuyện đó một cách rõ ràng và bình thản, nhưng thực tế, cả hai chúng tôi đều đang giả vờ. Sau khi hút xong một điếu, anh vô thức đi lấy điếu thứ hai, lần này tôi chặn tay anh ấy lại. Anh ấy đang ngồi trên giường thì quay lại nhìn tôi. “Không tốt cho sức khỏe” “Tốt hay không cũng không biết là có thể sống được bao lâu nữa.” Có lẽ tâm trạng của anh rất tiêu cực nhưng vẫn cười nói: “Tề gia bọn anh một lòng trung thành, nên anh cũng sẽ không nương tay.” Tôi nhìn vào đôi mắt anh ấy rồi lại chẳng nói gì cả. “Một lòng trung thành…” Nếu phải chết thì đây chắc chắn là lời giải thích tốt nhất dành cho Tổ quốc. Có lẽ chỉ khi trải qua thời đại như vậy thì mới hiểu, khủng khiếp hơn cái chết chính là sự thờ ơ của con người với cái chết. Những người bị chặt đầu trên đường phố và ngã xuống trên chiến trường đã trở nên quen thuộc với họ nên họ mới đối xử với việc đó một cách lạnh lùng. Để một quốc gia có tương lai xán lạn thì sức mạnh quân đội có quan trọng hay không? Tất nhiên là vô cùng quan trọng. Nhưng tôi cho rằng cái quan trọng hơn chính là niềm tin trong mỗi con người. Nếu không có nó thì một ngày nào đó đất nước suy thoái, lúc này nó chỉ còn là một vùng đất có tên chứ không phải là đất nước. May mắn thay, tôi đã nhìn thấy được niềm tin của này của Tề Thiệu Minh và những chiến binh nơi đây. Hơn nữa nó còn hừng hực bùng cháy như một ngọn lửa lớn. Về sau, mối quan hệ của chúng tôi tốt hơn rất nhiều, dù thỉnh thoảng anh ấy vẫn trêu chọc tôi nhưng không còn căng thẳng như trước nữa và quan điểm của tôi về anh ấy cũng đã thay đổi. Bệnh viện sát tiền tuyến đến nỗi ngày nào tôi cũng nghe thấy tiếng gầm rú của đạn pháo, lòng người tê dại. Tôi thường xuyên đau đầu, và đến lúc thay thuốc cho anh ấy, anh đã lấy tay che tai cho tôi. Bên ngoài tro tàn bay khắp bầu trời, lửa thiêu đỏ rực, tiếng la hét, tiếng gào thét, tiếng kêu gào từ tứ phía, chúng nhất thời nằm ngoài đôi bàn tay anh ấy. Đó cũng là giây phút hiếm hoi nhất trong ngày của tôi. Thay thuốc xong, tôi vẫn ngồi ở đó rồi quay đầu lại nhìn đồng hồ thì bắt gặp ánh mắt sáng rực của anh ấy. Ở đây, sinh mạng con người như cỏ rác, ở nơi không khác gì địa ngục này, con người vẫn mang niềm tin và niềm khao khát về tương lai. Đau thương ở đây không phải là hiếm nhưng mất mát về con người còn đáng sợ hơn. Tuy nhiên những tàn khốc đó đã tôi luyện cho con người lòng dũng cảm và mở ra tương lai xán lạn cho Trung Quốc. Người thanh niên trước mặt tôi đây, từ thuở thiếu thời cho tới nay, ở trong mưa kiếm và mũi tên dần dần trở nên dũng cảm, dần dần trở nên kiên định, dần dần hiểu được sứ mệnh của mình. Phải mất một thời gian dài tôi mới hiểu được rằng - thời điểm xuất hiện của một người trong cuộc đời bạn quan trọng như thế nào. Đối với tôi, trong thời đại mà chiến tranh đang hoành hành, tôi không biết liệu có ngày mai, hay thậm chí là cái chết bi thảm trong một giây tiếp theo, việc gặp và yêu Tề Thiệu Minh dường như là điều tôi không hiểu được. Tôi nhớ rằng đã có lần quân Nhật thất bại và phải ngừng chiến trong vài ngày. Tình cờ ngày đó thời tiết tuyệt vời, hỏa diễm thiêu đốt mây mù một vùng rộng lớn, kéo dài ngàn dặm. Đã lâu lắm rồi không nhìn được khung cảnh đẹp như vậy, có lẽ trời cao cũng đang an ủi con người. Thương binh đi lại được ngồi chật cứng ngoài sân hoặc tựa vào cửa sổ ngắm mây trời. Mọi người nở nụ cười từ lâu không thấy trên khóe miệng, nhìn thời tiết tốt như nhìn thấy hy vọng. Tôi hỏi anh ấy khi tôi hỗ trợ anh ấy trong quá trình tập luyện phục hồi chức năng: "Sau chiến tranh, anh muốn làm gì?" Có lẽ hôm đó trời quá đẹp, anh ấy hiếm khi trả lời kiểu như "chuyện này nói sau" mà nhìn hoàng hôn rồi nhoẻn miệng cười: "Cưới vợ, sinh một trai một gái, gửi chúng đến ngôi trường rộng rãi và sáng sủa, không ở trong những ngôi nhà lụp xụp, những đứa trẻ sẽ cười tươi, và không có chút sợ hãi trong ánh mắt thơ ngây của chúng." “Thực ra.” Anh không biết phải nói gì, tai đỏ bừng và gãi gãi đầu, “Anh không biết nói những lời đặc biệt và những lời này trước đây anh cũng học từ trung đoàn trưởng, hoàn cảnh thật ảnh hưởng đến con người. Thực ra, anh cũng rất thích đọc sách, sau chiến tranh, lương thực thì rất đắt nhưng sách thì rẻ hơn đồ ăn. Anh còn muốn mua một tủ đầy sách để đọc dần nữa.” Anh ấy nghiêng đầu nhìn tôi, "Em nghĩ thế nào?" Anh ấy cao lớn, tôi chỉ đứng đến ngực anh, khó khăn ngẩng đầu lên, nhưng lại cười rạng rỡ, "Tốt lắm." Khi anh thấy tôi cười, anh cũng cười và nói, "Tên con trai là An, và tên con gái Lộc, được chứ?"  "...... Tại sao anh lại hỏi em rằng được hay không! Không phải việc của em mà!" Tôi có chút ngượng ngùng, "Anh thích gọi nó là gì thì gọi như thế!" Vừa nói tôi vừa chạy đi. Anh không quan tâm đến vết thương ở chân, định chống nạng đuổi theo tôi, nhưng khi thấy tôi chạy quá nhanh, anh ta lại bắt đầu tỏ vẻ đáng thương, “ y da ~ Vết thương của tôi lại hở rồi… Y tá Tô, em đến đây mau, tôi đau quá... " Tôi biết anh ấy đang giả vờ, nhưng tôi đã quay đầu lại.  "Này" Anh đứng thẳng dậy cười với tôi, "An có nghĩa là bình an, Lộc... em đoán xem?"  “Em không đoán, đừng nói nữa!” Lần đầu tiên tôi cảm nhận được loại tình cảm không thể giải thích được như vậy, cả người tôi vừa kích động vừa khó chịu. Anh ấy không thèm để ý nữa, cúi xuống ghé vào tai tôi nói: "Lần đầu tiên anh nhìn thấy em, anh đã nghĩ đôi mắt của em thật đẹp! Trông chúng giống như mắt của một con nai vậy!" ( “lộc” là hán việt của từ “nai”)

Bình luận (0)

Đăng nhập để bình luận

Chưa có bình luận nào!

Danh sách chương

Cấu hình đọc

Kích thước chữ
Aa Nhỏ
Aa Vừa
Aa Lớn
Kiểu chữ
a Có chân
a Không chân
a Lexend
Màu sắc
TNC
TNC
TNC
Chiều cao dòng
Thấp
Vừa
Cao